Ngay từ những ngày đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ, kháng chiến là con đường duy nhất để bảo vệ độc lập, tự do, bảo vệ thành quả của Cách mạng tháng Tám. Đây sẽ là cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ nhưng nhất định thắng lợi. Điều đó đã được chứng minh bằng chiến thắng Điện Biên Phủ, mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ, cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc trên khắp thế giới.
Bài 1: Đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ tự do
Cuộc kháng chiến chống Pháp mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ là cuộc chiến tranh cách mạng có tính chất dân tộc độc lập, dân chủ tự do… nhằm hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc và phát triển dân chủ mới.
Tin vào thắng lợi cuối cùng
Sau Cách mạng tháng Tám thành công, trong Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc ngày 25.11.1945, Đảng ta đã chỉ ra rằng kẻ thù chính, nguy hiểm nhất của dân tộc là thực dân Pháp, phải tập trung mũi nhọn đấu tranh vào chúng. Ngày 19.10.1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ nhất, do Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì. Xuất phát từ nhận định “không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình nhất định phải đánh Pháp”, Hội nghị đề ra những chủ trương, biện pháp cụ thể cả về tư tưởng và tổ chức để quân dân cả nước sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới. Tiếp đó, trong Chỉ thị “Công việc khẩn cấp bây giờ” ngày 5.11.1946, Hồ Chí Minh cũng nêu lên những việc có tầm chiến lược, toàn cục khi bước vào cuộc kháng chiến và khẳng định lòng tin vào thắng lợi cuối cùng.
Các chuyên gia quân sự tổng kết, đường lối kháng chiến của Đảng được hoàn chỉnh và thể hiện tập trung trong ba văn kiện lớn được soạn thảo và công bố sát trước và sau ngày cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Đó là Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến” của Ban Thường vụ Trung ương Đảng ngày 12.12.1946, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Hồ Chí Minh ngày 19.12.1946 và tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi” của Trường Chinh xuất bản đầu năm 1947.
Các văn kiện chỉ rõ, “bất kì đàn ông, đàn bà không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, bất kì người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam phải đứng lên đánh thực dân Pháp”, thực hiện mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo đài; đánh địch về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao. Kháng chiến là để chống âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của Pháp, để có thời gian phát huy yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” của ta, chuyển hóa tương quan lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn địch, đánh thắng địch... Cuộc kháng chiến mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn song nhất định thắng lợi.
Thắng lợi chung của các dân tộc bị áp bức
Trên cơ sở động viên, tổ chức toàn dân, toàn thể cộng đồng các dân tộc Việt Nam vào công cuộc kháng chiến, Đảng chỉ đạo và lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt cho cuộc kháng chiến. Qua 9 năm vừa chiến đấu vừa xây dựng, Quân đội nhân dân Việt Nam đã lớn mạnh cả về lực lượng và tổ chức với đại đoàn, trung đoàn chủ lực cùng các đơn vị bộ đội địa phương có bản lĩnh chính trị, kinh nghiệm chỉ huy và chiến đấu phong phú, được trang bị vũ khí, khí tài ngày một tốt.
Cùng với bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương còn có lực lượng dân quân du kích hùng hậu, đông đảo rộng khắp, chiến đấu bảo vệ làng bản, phối hợp với bộ đội và là nguồn bổ sung quý báu để củng cố và phát triển Quân đội. Chính H. Navarre từng nhận xét, đó là kiểu “tổ chức lực lượng vũ trang và một bộ máy quân sự hoàn toàn thích hợp… là một “hình chóp nón sống” bám rễ sâu trong nhân dân. Tầng tháp bên dưới là du kích… tầng trên họ là bộ đội địa phương…, đỉnh tháp là bộ đội chính quy”.
Nhờ thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp mà trong chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954, chiến tranh du kích đã tiêu diệt được khoảng hai phần ba (8 vạn) số địch bị diệt trên toàn Đông Dương, “góp phần quyết định vào việc đánh bại kế hoạch Navarre”.
Cuối tháng 9.1953, trong cuộc họp Bộ Chính trị bàn về kế hoạch tác chiến, để phá việc tập trung khối cơ động chiến lược của quân Pháp về đồng bằng Bắc bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh giơ bàn tay phải lên, nắm lại, xòe ra và nói: “bàn tay nắm lại thì thành quả đấm mạnh. Nếu duỗi ra thì dễ bị bẻ gãy từng ngón. Ta phải có cách buộc khối quân cơ động của địch phải chia ra làm năm, bảy mảng mà tiêu diệt, làm cho chúng bị thất bại hoàn toàn”.
Quân và dân ta đã thực hiện xuất sắc tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, đẩy mạnh hoạt động quân sự, chiến tranh du kích ở vùng sau lưng địch và tiến công trên nhiều hướng chiến lược trọng yếu: đồng bằng Bắc Bộ, tiến công lên Lai Châu, buộc địch phải đưa quân lên Điện Biên Phủ giữ Tây Bắc, cùng quân giải phóng Pathet Lào tiến công Thà Khẹt…
Sau 56 ngày đêm chiến đấu, trải qua 3 đợt tiến công (13.3 - 7.5.1954), quân ta đã tiêu diệt toàn bộ Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, kết thúc thắng lợi sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lược, những cố gắng quân sự cao nhất của thực dân Pháp trong chiến tranh xâm lược Đông Dương, buộc chúng phải ký Hiệp định Genève (7.1954), chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá: “lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó cũng là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi vẻ vang của các lực lượng hòa bình, dân chủ và chủ nghĩa xã hội trên thế giới”. “Đó là thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta, mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Chiến thắng Điện Biên Phủ càng làm sáng ngời chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay: chiến tranh xâm lược của bọn đế quốc nhất định bị thất bại, cách mạng giải phóng của các dân tộc nhất định thành công”.
Tác giả bài viết: daibieunhandan.vn
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn